Tóm lược: Dòng Anh em Hèn mọn không được lập ra vì một công tác nào nhất định. Hoạt động của anh em thời đầu bao gồm nhiều thứ: lao động, rao giảng, học vấn, chiêm niệm. Như thế nét độc đáo của Dòng không nằm trong công việc nhưng trong đường hướng tinh thần.
![]() |
Thánh Phanxicô Assisi |
Để xác định bản chất Dòng Anh em Hèn mọn, ta có thể theo những điều nói trên đây mà nêu lên câu hỏi: có phải dòng đã ra đời vì một mục đích nhất định nào không? Nói rõ hơn: có phải dòng đã được thành lập vì một nhu cầu nhất định của Nước Chúa và do đó có phải sắc thái riêng của dòng tuỳ thuộc ở một hoạt động rõ rệt không?
Để trả lời câu hỏi trên, ta phải tìm hiểu đâu là sứ mạng mà thánh Phanxicô đã vạch ra cho anh em hồi sơ khai của hội dòng.
1. LAO ĐỘNG
Trước tiên hình như Anh em Hèn mọn đã tiếp tục hành nghề cũ của mình. Bởi lẽ lúc đầu không sống trong các tu viện (theo đúng nghĩa của danh từ tu viện), nhưng sống hoà lẫn giữa đồng bào nhiều hơn, và tìm được chỗ nào tiện thì trú ngụ ở đó (1Cel 39), theo sử liệu của Giacôbê Vitơry (Vitry) "suốt ngày họ đi vào các đô thị và thôn xóm, tìm công việc làm độ thân" (Thư đề tháng 11 năm 1216).
Vì thế trong Di cảo của ngài, thánh Phanxicô dành một chỗ đặc biệt để khuyến khích anh em làm một việc tay chân lương thiện.
Trong bản Luật không có sắc dụ (Bản luật 1221) ngài dành cả một chương nói về lao động, nhan đề là "Về cách thức phục vụ và làm việc", ngài viết:
"Khi đến làm việc và phục vụ trong nhà người ta, thì anh em đừng giữ chức quản phòng, hay quản gia, hay làm chủ trong nhà mình phục vụ, hay một chức vụ nào có thể gây vấp phạm cho người khác hay ‘làm thiệt hại cho chính mình'; nhưng anh em hãy sống hèn mọn, phục tùng mọi người trong nhà. Ai có khả năng làm việc và hành nghề mình biết, miễn là nghề ấy không gây thiệt hại cho phần rỗi linh hồn mình và được xem là lương thiện (...). Đổi lại công việc mình làm, anh em có thể nhận mọi đồ vật cần thiết ngoại trừ tiền bạc. Khi cấp bách, anh em hãy đi hành khất như những người nghèo khác. Anh em được phép có những dụng cụ cần thiết cho nghề nghiệp mình" (chương VII).
Bản Luật có sắc dụ (Bản Luật 1223) nói ít về vấn đề này, nhưng một cách sâu sắc :
"Những anh em được Chúa ban ơn làm việc, thì hãy làm việc một cách trung tín và sốt sắng. Như thế, họ tránh được sự ở nhưng có hại cho linh hồn, mà vẫn không dập tắt tinh thần cầu nguyện và đạo đức, là đối tượng mà mọi thực tại trần gian khác phải phục vụ. Đổi lại công việc lao động, anh em được nhận những gì cần thiết cho đời sống vật chất của mình và của anh em, ngoại trừ tiền bạc. Anh em hãy nhận cách khiêm nhường, như những tôi tớ của Thiên Chúa và những người bước theo thánh đức nghèo khó" (Chương V).
Và không bao lâu trước khi từ trần Phanxicô lại tha thiết nhắc nhở anh em một lần nữa về cái sứ mệnh ấy:
"Phần tôi, tôi đã làm việc tay chân và vẫn muốn làm việc. Tôi tha thiết muốn tất cả các anh em khác đều phải chuyên tâm làm một công việc lương thiện. Ai không biết làm việc thì phải học, không phải vì ham muốn nhận thù lao, nhưng là để làm gương và tránh ở nhưng. Khi người ta không trả công, chúng ta hãy chạy đến bàn ăn của Chúa bằng cách đi xin của bố thí từng nhà" (Dc 20-22).
2. Ý NGHĨA TÔNG ĐỒ CỦA LAO ĐỘNG
Những lời này cho ta thấy rõ ràng rằng Phanxicô làm việc không phải để làm việc hay là để kiếm tiền công, nhưng lao công đối với ngài có một ý hướng tông đồ: bởi thế một khía cạnh quan hệ của tông đồ Phan sinh là nêu gương tốt bằng một đời sống Kitô giáo trọn vẹn giữa thế gian, lặn lội giữa loài người, cùng làm việc với họ, nhưng với tinh thần Phúc Âm :"Anh em phải làm người hèn mọn" hơn mọi người cùng nhà và sẵn sàng phục dịch tất cả.
Khi làm việc người ta thường quên mối quan hệ giữa mình với Chúa, chỉ nhắm vào lợi lộc, bận bịu với công việc và do đấy lao động trở nên mối nguy hiểm cho đời sống Kitô giáo chân chính để làm gương cho mọi người. Cũng trong bản luật nói trên, Phanxicô đề cập đến một loại sinh hoạt khác của anh em là: săn sóc người đau ốm và nhất là người phung cùi (như chính ngài đã làm).
"Anh em có thể làm những công việc không nghịch lại với đời sống chúng ta để phục vụ những nơi ấy, và Chúa sẽ chúc lành cho. Tuy nhiên, vì nhu cầu rõ ràng khẩn thiết của người phung cùi, anh em có thể đi xin của bố thí cho họ. Nhưng nhất thiết hãy tránh tiền bạc. Cũng vậy, tất cả anh em đừng chạy ngược chạy xuôi để tìm kiếm chút lợi lộc đáng khinh" (Lksd, 8,9-12).
3. RAO GIẢNG VÀ TRUYỀN GIÁO
Theo bản luật này, thì trong dòng, các linh mục là những người tông đồ trong Nước Chúa. Phanxicô đưa ra cho họ những chỉ thị quý báu về vấn đề giải tội và rao giảng Lời Chúa (Lksd 12.17.21). Việc giảng dạy lưu động mai đây nay đó là một trong những sinh hoạt cốt yếu của Hội Dòng hồi sơ khởi. Công tác ấy gây một tiếng vang lớn trong Giáo Hội thời ấy, đến nỗi Giacôbê Vitơry đã viết một cách đầy thán phục: "Đây quả là Hội Dòng quy tụ những người nghèo chân chính của Chúa chịu đóng đinh, và là Hội Dòng của những người giảng thuyết, mà chúng ta gọi là Anh em Hèn mọn".
Luật Dòng Anh em Hèn mọn là luật dòng đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội nói kỹ càng về vấn đề truyền giáo cho dân ngoại. Có cả một chương nói về "Những anh em đi truyền giáo cho người Hồi giáo và các người ngoại giáo khác".
Phanxicô khuyên dạy và hướng dẫn các anh em ấy trong đời sống và hoạt động tông đồ của họ.
Người đòi hỏi họ hy sinh mọi sự cả đến tính mạng nữa: "Tất cả anh em, dù ở đâu, hãy nhớ rằng: mình đã tự hiến và phó dâng thân mình cho Chúa Giêsu Kitô. Vì lòng yêu mến Chúa, anh em phải chấp nhận các nghịch thù, hữu hình cũng như vô hình, vì Chúa nói: Ai liều mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống ấy và hưởng phúc trường sinh" (Lksd 16,10-11).
4. CHIÊM NIỆM
Trong lòng Giáo Hội, Anh em Hèn mọn còn một sinh hoạt khác nữa, mà thánh Phanxicô đã nói tới khi người diễn tả lối sống đặc biệt dành cho anh em nào sống đời chiêm niệm trong một nơi thanh vắng, chuyên lo cầu nguyện và suy ngắm mầu nhiệm của Chúa. Sinh hoạt này đối với Phanxicô là một sinh hoạt cấp bách và cần thiết đến nỗi ngài đã do dự lâu lắm không biết có nên rút lui khỏi sinh hoạt và giảng thuyết lưu động hay chăng? Nhưng Chúa đã chỉ dẫn cho ngài phải chọn cả hai thứ sinh hoạt.
6 . HỌC VẤN
Và sau cùng trong thư gửi cho thánh Antôn, Phanxicô cho phép mở trường thần học:
"Tôi bằng lòng để Anh giảng dạy thánh khoa thần học cho anh em, miễn là trong việc học hành, người ta đừng dập tắt tinh thần cầu nguyện và sốt mến, như được ghi trong Luật Dòng" (Thư gửi thánh Antôn).
7. PHỤNG VỤ
Tất cả các sinh hoạt ấy phải được sinh hoạt trong phụng vụ thấm nhuần và nâng đỡ, Phanxicô dạy anh em có bổn phận trau dồi đời sống phụng vụ. Họ phải đọc nhật tụng như các giáo sĩ khác: "Tôi cũng xin anh em giáo sĩ hãy sốt sắng cử hành thần tụng: Trước mặt Thiên Chúa, anh em đừng bận tâm tới cung giọng, nhưng tới sự hoà hợp của tâm hồn, sao cho lời kinh trên môi miệng hoà hợp với tâm trí và tâm trí hoà hợp với Thiên Chúa" (Thư gửi Toàn dòng, 41).
Đối với Phanxicô, tất cả đời sống phải được đúc kết lại trong sinh hoạt phụng vụ: Ngài coi đó là một việc quan trọng đến nỗi ngài đã nghiêm nhặt viết những lời sau đây, tuy ngài vốn rất nhân hậu và từ tốn:
"Ai không muốn tuân giữ các điều ấy, thì tôi không coi họ là người công giáo và là anh em của tôi nữa. Tôi cũng không muốn nhìn mặt và nói chuyện với những người đó cho đến lúc họ hoán cải" (Thư gửi Toàn dòng, 44).
KẾT LUẬN:
Như ta thấy Phanxicô đã để lại cho anh em nhiều môi trường hoạt động trong Giáo Hội, bởi đó sinh hoạt của Anh em Hèn mọn ngay từ đầu đã bao gồm nhiều thứ.
Sinh hoạt đó đi từ lao động đến tĩnh tu thuần tuý, từ công tác tông đồ đến việc giảng dạy thần học, và trong các sinh hoạt ấy, thì phụng vụ chiếm một chỗ đặc biệt. Vào thời đại ấy môi trường hoạt động kia khó mà nới rộng hơn nữa.
Từ cái nhìn tổng quát trên, ta có thể kết luận: Đặc tính hoặc bản chất của dòng thánh Phanxicô không tuỳ thuộc ở một sinh hoạt bề ngoài nào nhất định.
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Theo thánh Phanxicô, anh em phải lao động trong tinh thần nào?
2. Ý nghĩa của lao động đối với thánh Phanxicô?
3. Chúng ta có quan tâm đủ tới sứ mạng thừa sai không? Làm cách nào chu toàn sứ mạng ấy hôm nay?
CHƯƠNG IV: ĐƯỜNG LỐI THÁNH PHANXICÔ ĐI THEO CHÚA KITÔ
Tóm lược: Đức Kitô mà thánh Phanxicô noi theo là Đức Kitô trong nhân tính của Ngài. Tình yêu thúc đẩy ngài sống như Chúa đã sống, một cách thật sát. Kết quả là ngài hoàn toàn huỷ bỏ được "tinh thần xác thịt", được chi phối hoàn toàn bởi "Tinh thần của Chúa". Nhờ tinh thần này, con người sẽ tràn ngập Thiên Chúa, sẽ tìm được sự thống nhất cho cuộc sống và tính đơn sơ trong sáng.
Trên kia chúng ta đã thấy dòng Anh em Hèn mọn không thuộc nhóm những hội dòng đã được thành lập vì một nhu cầu lịch sử nhất định của Nước Chúa. Vậy có phải Phanxicô đã nêu lên cho dòng mình một tinh thần nhất định làm sợi dây liên kết những sinh hoạt khác nhau không? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải xem thánh Phanxicô và hội dòng của ngài có hay không một cách thức noi gương Chúa riêng biệt, và trong tinh thần của dòng, có hay không lối độc đáo trình bày đời sống, hành động của Chúa Kitô ?
1. THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI
Trong đời sống tu trì của thánh nhân, ta thấy nổi bật hình ảnh Chúa làm người. Nền đạo đức thời tiền bán Trung cổ, kể từ thánh Bênađô trở đi đã khám phá được khía cạnh nhân loại nơi Chúa Giêsu. Đây là sự kiện mà người tín hữu suy niệm một cách say mê, sốt sắng: Chúa Cứu Thế đã sống nghèo nàn, hèn mọn, bị khinh dể và bị ruồng bỏ, đã rao giảng Tin Mừng cho dân chúng, nhất là cho người nghèo khổ; đã phục dịch tất cả mọi người, nhưng ưu tiên là người bệnh tật hèn yếu; Người đã đến với mọi người không trừ ai, tìm kiếm từng kẻ có tội, chịu đau khổ và tử nạn cho nhân loại. Đó là những nét trổi bật trong bức hoạ mới mẻ về Chúa Kitô, đáp ứng được nhu cầu đạo đức của người tín hữu thời ấy một cách đặc biệt. Họ cảm thấy hạnh phúc khi nghĩ đến Chúa đã trở nên anh em của mình.
2. TÌNH YÊU LÀ KHỞI ĐIỂM VÀ CÙNG ĐÍCH
Bức hoạ Chúa Kitô nói trên cũng đã ảnh hưởng sâu xa đến thánh Phanxicô. Bởi thế, ngài đã "thực nghiệm" các bài tường thuật của Phúc Âm theo một đường lối hoàn toàn mới mẻ và độc đáo: trong tình yêu. Bởi thế, đối với ngài, cái đã qua trở thành hiện tại, "không phải vì nhu cầu thích cái thực tế, nhưng vì lòng sùng kính thường nhật thúc bách". Ở đây, có thể nhắc tới hang đá ngài làm tại Greccio, đã diễn lại cách đơn sơ và sống lại một cách sâu sắc biến cố xưa xảy đến ở Bêlem. Cũng nên nhắc đến lòng sùng kính của thánh nhân đối với sự thương khó Chúa: ngài đã cùng chung khổ với Chúa chịu nạn đến nỗi đã được in năm dấu thánh trên mình. Sau hết, cũng vì thế, nên đối với Phanxicô, các bài tường thuật của Phúc Âm trở thành một "thực nghiệm" hiện tại tuy vừa giữ được tính chất siêu nhiên, vừa đầy tính chất nhân loại. Tình yêu của Thiên Chúa biểu lộ ra trong mầu nhiệm nhập thể và trong cuộc đời Chúa Kitô, tình yêu đó nung đốt Phanxicô đến nỗi ngài không còn biết làm gì hơn là đi theo Chúa trong tình thương mến. Bởi ngài tin chắc cuộc đời Chúa Kitô là con đường biểu lộ cụ thể tình yêu Thiên Chúa đối với loài người. Bởi vậy đối với ngài, con đường dẫn nhân loại đến tình yêu Chúa Cha, chính là cuộc đời Đức Kitô. Vì thế Phanxicô đem hết lòng mến yêu bắt chước cuộc đời Chúa trong từng nét, từng điểm, một cách cương quyết và đơn sơ, vượt qua mọi lý luận. Ngài chấp nhận toàn bộ Phúc Âm, không thêm bớt, gia giảm. Nhờ đó, cuộc đời ngài đã phản chiếu cuộc đời Chúa Kitô, và người đương thời đã coi thánh nhân như một Đức Kitô mới. Ngài phản ánh sự thánh thiện của Chúa, như lời Cêlanô, người đầu tiên đã viết truyện ký Phanxicô: "Tôi tin rằng thánh Phanxicô là tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Chúa và là hình ảnh sự toàn thiện của Người" (2Cel 26).
Vậy đường lối Phanxicô theo chân Chúa có đặc điểm này là phát xuất từ Tình yêu và dẫn về Tình yêu. Bởi thế, thánh nhân yêu mến Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã sinh xuống làm người để cho ta là anh em của Người được trở nên con cái Chúa Cha. Tình yêu của loài người đáp lại tình yêu Thiên Chúa: đó là nét tiêu biểu trong cuộc đời thánh Phanxicô, và cũng là đặc điểm của cách thức Phanxicô theo chân Chúa.
3. ĐI THEO VẾT CHÂN CHÚA KITÔ
Bằng cuộc sống và lời giảng dạy, thánh nhân đã vạch đường lối ấy cho con cái ngài làm lý tưởng. Chúa đã sống thế nào, Phanxicô muốn sống thế ấy, và các anh em cũng phải sống như vậy. Không ai diễn tả lý tưởng Phan sinh một cách rõ ràng và sâu sắc bằng thánh nữ Clara, đồ đệ trung thành nhất của Phanxicô:
"Con Thiên Chúa đã trở nên con đường cho ta đi theo; con đường ấy, thánh phụ Phanxicô, môn đệ yêu dấu Chúa, đã dùng lời nói và việc làm mà chỉ cho ta".
Phanxicô luôn luôn nhắc nhở anh em nhắm lý tưởng đó:
"Luật và đời sống anh em là: sống vâng phục, khiết tịnh và không có của riêng, và tuân giữ đạo lý cùng bước theo vết chân Đức Giêsu Kitô, Chúa chuúng ta" (Lksd 1).
Để không ai còn hồ nghi về cách thức mình muốn hiểu đời sống theo Phúc Âm như thế nào, Phanxicô thích dùng câu: "bước theo vết chân Chúa" (Sequi vestigia ejus), như Thánh Kinh quen dùng. Các anh em cũng phải bắt chước đúng hệt kiểu sống này, phải đặt vết chân mình vào vết chân Chúa. Họ phải bắt chước có thể nói là "từ chương", không cần giải thích. Luật và đời sống họ là "Lời Chúa, đời sống, giáo lý và Tin Mừng của Người" (Lksd 22). "Hỡi anh em, chúng ta hãy nhìn ngắm vị mục tử nhân lành đã chịu khổ hình thập giá để cứu độ đoàn chiên. Đoàn chiên Chúa đã đi theo Người trong gian khổ và bách hại, tủi nhục và đói khát, trong bệnh tật và thử thách cùng bao nỗi đắng cay khác; nhờ vậy, họ được Chúa cho sống muôn đời" (Hn 6).
Vậy, anh em phải luôn luôn đặt cuộc đời Chúa ra trước mặt mình, làm cho đời mình nên giống đời Chúa.
4. TINH THẦN CỦA CHÚA VÀ XÁC THỊT
Ai trung thành đi theo vết chân Chúa, bắt chước đời Người mà không thêm bớt, kẻ ấy sẽ được Tinh thần Chúa sống động trong mình, sẽ làm cho cuộc đời và hành động Chúa phản chiếu lại trong đời sống mình như trong một bức hoạ mới. "Tinh thần của Chúa" đó là đỉnh cao và một phần nào cũng là kết quả của cuộc đời dâng hiến. Ta có thể coi đó là nòng cốt tư tưởng và thái độ sống đạo của thánh Phanxicô.
Tinh thần Chúa phải lướt thắng tinh thần xác thịt, hay (nói theo kiểu mới) tinh thần của cái tôi ích kỷ. Thánh nhân đã bàn về điểm này trong Luật dòng, trong các thư từ và lời khuyên răn anh em. Hai ý niệm song hành này- Tinh thần Chúa và tinh thần xác thịt- chắc chắn là một trong những chìa khoá quí báu giúp ta hiểu bản chất và tinh thần dòng Anh em Hèn mọn. Qua nếp sống bề ngoài, Phanxicô đã bắt chước Chúa một cách gần như nô lệ và đòi hỏi anh em làm như thế, đến nỗi nhiều lúc ta có cảm tưởng ngài diễn một trò chơi nghiêm trang và thánh thiện (một trò chơi chứng tỏ Phanxicô là một nhà thơ có óc tưởng tượng linh hoạt và phong phú lạ thường). Tuy thế không phải là ngài bắt chước một cách hời hợt bên ngoài; ngay cả đời sống ngài là một trò chơi (theo nghĩa cao đẹp nhất), qua đấy việc đi theo Chúa biến thành việc bắt chước Chúa, cùng sống với và như Chúa. Nhưng Phanxicô cũng nhấn mạnh rằng việc bắt chước Chúa trong nếp sống bên ngoài phải tạo cho môn đệ Chúa một tâm trạng mới. Theo Phanxicô hiểu, trong mỗi một môn đệ Chúa, phải sống động một tinh thần hoàn toàn mới mẻ và ngài gọi nó là "Tinh thần của Chúa"- Spiritus Domini- hay tinh thần Thánh Kinh. Trên đường đi theo Chúa Kitô cách vô điều kiện, khi tác phong Phúc Âm đã chiến thắng xác thịt, lúc đó Tinh thần Chúa Kitô đến chiếm đoạt trọn vẹn người tín hữu.
5. HẬU QUẢ CỦA TINH THẦN CHÚA
Căn cứ vào những điều Phanxicô nói về Tinh thần của Chúa, ta có thể quảng diễn ý niệm xúc tích đó như sau:
Ai có Tinh thần Chúa và để nó hành động trong mình, sẽ không còn suy nghĩ theo mực thước thông thường người đời nữa. Kẻ ấy sẽ không nhìn và đánh giá thực tại cuộc sống theo tinh thần thế tục, bằng cái tôi ích kỷ; trái lại nhờ Tinh thần Chúa, tất cả mọi liên hệ và cảnh huống cuộc đời đều được đặt lại trên nền tảng Phúc Âm, được nhìn và đánh giá bằng chính cặp mắt Chúa Kitô.
Qua những tư tưởng trên, ta thấy sự đòi hỏi của con đường đền tội Phan sinh rộng rãi như thế nào, vì đền tội ở đây được hiểu theo nghĩa sâu xa của Phúc Âm là: trở dạ, đổi hướng lòng (metanoia).
Những giá trị hoàn toàn khép kín trong phạm vi tự nhiên đều bị biến đổi bởi Tinh thần Chúa, tuy rằng trong thực tế những nền văn minh Kitô giáo đã xây dựng một nền nhân văn tự lập, trái với Phúc Âm và tám mối phúc thật. Vì ở đây người ta tìm cách thực hiện những đòi hỏi gắt gao, "ngược đời" của Phúc Âm một cách nghiêm chỉnh, không nhân nhượng, và đem tư tưởng, đời sống, hành động theo kiểu mẫu Phúc Âm thay thế vào cái tôi ích kỷ, kiêu căng của loài người. Cũng vì thế mà nơi những người làm được như thế mầu nhiệm cứu thoát mở rộng ra trước mọi tạo vật. Giải thoát khỏi cái tôi ích kỷ, cái giá trị tự nhiên sẽ được đặt lại đúng chỗ và lấy lại được vẻ đẹp mà Chúa đã ban cho chúng và phải qui về Chúa. Ai đã dùng Tinh thần Chúa chiến thắng cái tôi, sẽ chiếm đoạt lại thế gian và mọi sự trong trật tự nguyên thuỷ Chúa đã an bài, và bởi đó, sẽ khám phá ra cái bản chất sâu thẳm của chúng. Cũng vì thế mà Phanxicô đã gần gũi tạo vật đến nỗi lắm lúc ta có cảm tưởng như trạng thái địa đàng đã diễn lại trong đời ngài. Khi Phanxicô không muốn gì cho riêng mình nữa, thì tạo vật trở nên bậc thang dẫn ngài tới Chúa.
Ta thấy điều mà Phanxicô sống và đòi hỏi là con người mới, con người thuộc về Chúa Kitô. Trên con đường đi theo Chúa, nhờ Tinh thần Chúa nuôi dưỡng, con người ấy tiến tới hoàn thiện thuộc về Chúa và tham dự vào sự sống Người. Bởi thế, Phanxicô đã có thể viết:
"Những anh chị em nào thực hành như thế và kiên trì đến cùng, thì Thánh khí Chúa sẽ ngự xuống trên họ và biến họ thành ngôi nhà và chốn cư ngụ của Người. Họ là bạn trăm năm, khi linh hồn đầy đức tin của chúng ta được Chúa Thánh Thần liên kết với Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta là anh chị em của Người khi chúng ta thực hiện ý Cha trên trời. Chúng ta là mẹ của Người khi chúng ta cưu mang Người trong tâm hồn và thể xác , bằng cách yêu mến Người và gìn giữ lương tâm trong trắng và chân thành; chúng ta sinh Người ra bằng hành vi thánh thiện nhằm nêu gương sáng cho kẻ khác" (thư gửi các tín hữu, câu 48-53).
Những dòng này nói lên một cách tài tình tư tưởng căn bản của đời sống Phan sinh. Ai đã lấy Tinh thần Chúa mà chiến thắng cái tôi ích kỷ tức là "tinh thần xác thịt" (spiritus carnis), đều được tràn ngập Thiên Chúa, sống mật thiết với Chúa Ba Ngôi. Ai đã tuỳ sức mình dẹp bỏ được mọi vướng trở, lo lắng bận bịu sự đời, đều được tự do nẩy nở trong chiều hướng tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa. Họ sẽ thờ phượng Chúa với cõi lòng thanh sạch và được Chúa Ba Ngôi ngự trị trong mình. Bởi những kẻ sống nhờ Tinh thần Chúa và hành động theo Tinh thần ấy, sẽ không còn sống cho mình nữa mà hoàn toàn cho Chúa; họ đứng hẳn về phía Chúa, lấy Người làm tiêu chuẩn xây dựng vũ trụ và nhân sinh quan của mình. Họ là người của "thánh đức đơn sơ" (sancta simplicitas), đã dứt bỏ được mọi mối chia rẽ của cuộc sống. Cũng không lạ, tính cách phức tạp gây nên bởi mối liên hệ giữa cái tôi ích kỷ với tha nhân và sự vật, sẽ không còn nữa, nhưng sẽ tìm lại được sự đơn sơ nguyên thuỷ trong ánh sáng Chúa chiếu soi. Phải, con người "đơn sơ" đã bước vào trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm ấy tựu trung là một thực nghiệm về tình yêu đơn giản của Thiên Chúa. Bởi đó, con người của "thánh đức đơn sơ" nhất thiết trở nên con người chí ái (séraphicus). Mà quả thực, đó là trường hợp Phanxicô xưa.
CÂU HỎI GỢI Ý:
- Lòng sùng đạo thời Trung cổ, đặc biệt kể từ thánh Bênađô, thích chiêm ngắm Chúa Kitô dưới khía cạnh nào?
- Thánh Phanxicô noi gương Chúa một cách thật sát: cho vài thí dụ.
- Thánh Phanxicô muốn hiện tại hoá cuộc đời Chúa Kitô: cho vài thí dụ.
- Ý nghĩa của Năm dấu trong đời sống thánh Phanxicô?
- Nòng cốt tư tưởng và thái độ sống đạo của thánh Phanxicô là gì?
- Hậu quả của Tinh thần Chúa nơi con người?
CHƯƠNG V: BỘ MẶT TINH THẦN CỦA DÒNG ANH EM HÈN MỌN
Tóm lược: Những nét tinh thần của hội dòng là: tình huynh đệ, nghĩa hèn mọn (bao gồm lòng khiêm nhường và nghèo khó), sự tự do và tính vui vẻ.
Cho đến nay, chúng ta thử trình bày lòng đạo đức của thánh Phanxicô trong tất cả vẻ sống động và chiều sâu của nó; bây giờ có thể dễ dàng rút ra những đặc điểm chính của Hội dòng là kết tinh của tinh thần thánh nhân.
Như đã nói trên, con cái đích thực của Phanxicô gắng noi gương Chúa Kitô cách nghiêm chỉnh và thể hiện lối sống theo Phúc Âm (Forma sancti Evangelii); nhờ đó họ lấy Tinh thần Chúa chiến thắng được cái tôi ích kỷ. Trong sự đơn sơ mà tình yêu đem lại, họ tiến gần đến Chúa và trong Chúa, đến gần mọi tạo vật; lúc bấy giờ họ được trở nên con cái của Cha trên trời và anh em của Chúa Kitô, cùng chung sống và hành động với Người. Mà ở đâu có nhiều người cùng chung sống và hành động với Người Anh Cả Giêsu, ở đó lập tức có cộng đoàn anh em. Cho nên không phải tình cờ mà thánh Phanxicô gọi cộng đoàn môn đệ ngài là huynh đệ đoàn (fraternitas), vì quả thật đó là một đoàn anh em theo nghĩa sâu sắc và căn bản nhất của danh từ.
1. HUYNH ĐỆ
Các môn đệ thánh Phanxicô sống thành cộng đoàn anh em cùng với Đức Kitô, một cộng đoàn trong đó mỗi người được đích danh mời gọi noi gương Chúa và chịu trách nhiệm về cả tập thể mình. Như thế mỗi cá nhân mang một giá trị lớn lao vì là anh em của Chúa Kitô. Điều này cắt nghĩa tại sao dòng Anh em Hèn mọn ưu ái con người cá nhân cụ thể, kính trọng những nét độc đáo của cá nhân và sứ mạng Chúa giao phó riêng cho mỗi người. Đó là một đặc điểm của dòng từ xưa đến nay. Các luật lệ của nó luôn luôn dành rất nhiều tự do cho bản lĩnh mỗi người được nẩy nở.
Trong cộng đoàn Phan sinh, quyền hành không đóng vai trò quan trọng đặc biệt nào, vì mỗi thành phần được Thần Linh Chúa thâm nhập, đều có trách nhiệm gánh vác cộng đoàn; chính trong các thành phần của nó hơn là qua những hình thức chặt chẽ bên ngoài mà cộng đoàn được thể hiện. Bởi vậy trong Bản Luật không sắc dụ Phanxicô đã viết: "Không ai được mang danh là bề trên (prior), nhưng tất cả hãy cùng mang danh là anh em hèn mọn" (6,3). Một cách đơn sơ, người điều khiển cộng đoàn phải gọi là tôi tớ, theo đúng tinh thần của Đấng đã phán: Ta đến không phải để được phụng sự (Mt 20,28)... Họ không nắm giữ chức vụ mình suốt đời trái lại phải luôn luôn sẵn sàng từ chức (x. Lksd 17). Phanxicô nhắc nhủ thêm: "Những người được đật ở địa vị cao hơn kẻ khác hãy lấy làm vinh dự về chức vụ bề trên này chẳng khác gì khi được cử ra làm công tác rửa chân cho anh em. Còn lúc bị cất chức quyền mà buồn bực, họ càng giống như kẻ giữ túi tiền gây nguy hại cho linh hồn" (Hn 4; x. Lksd 5).
Qua những lời trên, ta thấy rõ tinh thần phụng sự vì tình yêu thương là động lực cuối cùng và là sợi dây thắt chặt cộng đoàn Phan sinh.
Những cộng đoàn nào xây dựng trên Tinh thần Chúa như thánh Phanxicô và các anh em ngài đã làm xưa một cách tuyệt vời, đều có thể tổ chức theo nếp sống Phúc Âm đúng như Chúa dạy: "Tất cả chúng con đều là anh em. Vậy đừng gọi ai trên đời này là cha, bởi chúng con chỉ có người Cha trên trời" (Mt 23,8; x. Lksd 22). Từ đó chúng ta hiểu quan niệm của thánh Phanxicô về vâng lời: "Khi anh em vâng lời là vâng lời chính Thiên Chúa Cha cùng với Chúa Kitô". Bởi vậy, vâng lời là yếu tố căn bản của sự "đi theo vết chân Chúa" (sequi vestigia Christi). Các bề trên phải vâng lời Thiên Chúa Cha với Chúa Kitô, còn cấp dưới thực hiện sự vâng lời đó qua bề trên. Mẫu mực của "đức vâng lời yêu thương" này (caritativa oboedientia) là Chúa Kitô; nó đảm bảo cho huynh đệ đoàn Phan sinh trong đó tất cả đều được thuộc về cùng đại gia đình Cha chung trên trời. Lời răn dặn sau đây của Phanxicô áp dụng cho cả bề trên lẫn bề dưới: "(anh em đừng làm hại hoặc nói xấu lẫn nhau), trái lại nhờ "đức mến do bởi Thần khí", anh em hãy sẵn sàng phục vụ và vâng lời lẫn nhau. Đó chính là sự vâng phục chân thật và thánh thiện của Đức Giêsu Kitô" (Lksd 5).
2. HÈN MỌN
Bên cạnh tình huynh đệ còn có một điểm thứ hai nữa của Hội dòng: nghĩa hèn mọn (minoritas), tức là ý chí để làm kẻ cùng rốt bất cứ lúc nào và ở đâu. Là hèn mọn kẻ nào tùng phục mọi người và sẵn sàng phụng sự mọi người vì Chúa (x. Lksd 7&17). Vì thế muốn làm hèn mọn thật nhất thiết phải đơn sơ. "Thánh đức đơn sơ tinh tuyền (sancta simplicitas) đánh bại mọi thứ khôn ngoan của con người trần tục" (x. Kinh kính chào các nhân đức) vì nó nhìn xem tất cả theo quan niệm của Chúa và coi mình chỉ là dụng cụ của Người. Ai hèn mọn theo nghĩa sâu xa trên sẽ bắt chước lòng khiêm nhu và nghèo khó của Chúa Kitô. Đó là hai rường cột của thái độ sống hèn mọn (x. L 7). Chúa đã từ bỏ sự giàu sang nơi Đức Chúa Cha, xuống thế sống nghèo khó, làm tôi tớ mọi người, làm kẻ cùng rốt, bị ngược đãi và cuối cùng phó mình chịu chết cách nhục nhã nhất. Người đã chẳng khư khư giữ lấy địa vị Thiên Chúa, hầu trở nên anh em của kẻ cùng rốt và bị khinh dể nhất đời. Ai đi theo chân Chúa và muốn sống bởi Tinh thần Người, sẽ không được muốn có của gì, phải có can đảm sống một đời không đòi hỏi, nghèo khó cả bên trong lẫn bên ngoài. Điều đó bao hàm việc từ bỏ mọi cao vọng và quyền lợi.
Ở đây mực thước duy nhất là Chúa Kitô, Đấng đã đi con đường nghèo khó trước chúng ta. Và trong điểm này nữa, ta cũng thấy thánh nữ Clara là môn đệ trung tín nhất của Phanxicô. Noi gương vị thánh nghèo, ngài đã sống cuộc đời hoàn toàn qui về Đức Kitô, trong Di chúc, ngài viết: "Trong suốt đời ở trần gian, quý tử của Thiên Chúa không hề muốn xa rời thánh đức nghèo khó. Và thánh phụ Phanxicô chúng ta cũng chẳng bao giờ lìa xa đức nghèo của Chúa Kitô trong lời nói và việc làm, đức nghèo ngài đã chọn cho mình và cho các anh em".
Nhưng ai muốn sống nghèo như thế, cũng phải can đảm hạ mình phục dịch mọi người như Chúa Kitô đã phó mạng sống để phụng sự tất cả. Đó là thánh Phanxicô đã diễn tả ý nghĩa sâu sắc của đức nghèo khó và khiêm hạ Phan sinh, trong lá thư ngài gửi cho toàn dòng: "Hỡi anh em, hãy nhìn ngắm gương khiêm nhường của Thiên Chúa và trước mặt Người hãy thổ lộ tâm can. Anh em hãy hạ mình xuống để Người nâng anh em lên. Vậy anh em đừng giữ lại cho mình bất cứ điều gì, để Chúa đã hiến trọn mình cho anh em, cũng sẽ nhận lấy toàn thân anh em".
Hẳn không nơi nào Phanxicô đã diễn tả một cách rõ ràng hơn cái định luật căn bản của nếp sống hèn mọn Phan sinh: là lấy Tinh thần Chúa lướt thắng con người ích kỷ. Nghèo khó và khiêm hạ là dốc sạch mình đi (exinanitio), triệt ngã, đó chính là cái hèn mọn của Anh em Hèn mọn vậy. Nghèo khó và khiêm hạ lại cũng là bảo đảm và nền tảng của tình huynh đệ, bởi vì, một cách mau lẹ và hữu hiệu nhất, chúng tiêu diệt được lòng ích kỷ của con người, là mối nguy lớn nhất của tình anh em.
3. TỰ DO
Ai cũng thực hiện đức nghèo khó, khiêm hạ của Chúa trong đời mình, sẽ được tự do thanh thoát như thường thấy nơi những con người Phan sinh đích thực. Họ không còn vương vấn thế gian và sự đời, không còn bị cái tôi ràng buộc, nhưng hoàn toàn thảnh thơi cho Thiên Chúa, như Phanxicô xưa. Chính vì không bị ràng buộc với mình, với thế gian và kẻ khác mà cõi lòng sẽ rộng mở đón nhận Chúa. Chỉ ai tự do, ai sống trọn vẹn trong Chúa mới cho những lời sau đây của thánh Phanxicô là hiển nhiên: "Tôi xin người anh em đau ốm hãy tạ ơn Chúa Tạo Hoá về tất cả mọi sự. Chúa muốn cho mình thế nào, khoẻ mạnh hay ốm đau, thì hãy ước ao như vậy" (Lksd 10,3-4). Khi không còn chút quan tâm nào về chính mình nữa, con người sẽ trở nên một với thánh ý Chúa, không phải theo nghĩa cam chịu cách nhẫn nại mà thôi, nhưng còn theo nghĩa cách kết hợp cách tích cực nữa. Muốn được thế, tất phải lướt thắng mình, phải hoàn toàn "tự do" đối với chính mình.
4. VUI VẺ
Phát xuất từ nghèo khó và khiêm hạ, hay nói cách khác, là kết quả nghĩa hèn mọn, sự tự do sẽ là nguồn mạch của niềm vui Phan sinh. Ai chỉ còn ao ước những gì làm đẹp lòng Chúa, thì không một ai, không cảnh ngộ nào có thể làm họ mất an vui, vì niềm vui của họ bắt nguồn từ sự tự do của con cái Thiên Chúa. Họ không còn lý do nào để buồn rầu nữa ngoại trừ khi đánh mất sự an hoà đó, khi sa ngã phạm tội. Bởi đó Phanxicô đã răn dạy một cách hết sức tự nhiên: "Anh em đừng tỏ ra buồn rầu và ủ dột như bọn đạo đức giả, nhưng hãy tỏ ra vui mừng trong Chúa, tươi cười, hoà nhã cho hợp lễ" (Lksd 7,16). Chỉ ai có Tinh thần Chúa và sống hèn mọn thật mới đạt đến nguồn vui tuyệt đối; chỉ người ấy mới khám phá mầu nhiệm của niềm vui đó mà đấng tổ phụ đã để lại cho tất cả Anh em Hèn mọn như một di sản quý báu và một sứ mệnh trọng đại.
5. TÓM TẮT: BẢN CHẤT DÒNG LÀ GÌ?
"Tất cả đều gọi là Anh em Hèn mọn": phải chăng chỉ là tình cờ, hay trái lại là một khám phá sâu sắc của Phanxicô khi ngài đặt tên cho con cái mình là Anh em Hèn mọn (Ordo Fratrum Minorum) và tên gọi đó đã diễn tả chính bản chất sâu xa của Hội dòng? Vì như đã nói, một cuộc đời được Thần Linh Chúa thúc đẩy muốn hiến dâng để noi gương Đức Kitô và tiến tới tình yêu Thiên Chúa Cha, chỉ có thể hoàn thành cách cụ thể trong tình huynh đệ và nghĩa hèn mọn, tức là ý chí làm kẻ cùng rốt bất cứ ở đâu và bao giờ.
Vậy có thể định nghĩa bản chất của Dòng Anh em Hèn mọn như sau: đó là cộng đoàn những người anh em được tình yêu Chúa thúc bách cùng đi theo vết chân Đức Kitô một cách trung tín và chân thành: mối tình đó làm họ tràn đầy Thần Linh Chúa và bắt buộc họ phải luôn luôn làm kẻ cùng rốt, sẵn sàng san sẻ với mọi người bằng lời nói và việc làm, cái tình yêu của Đức Chúa Cha mà họ được thực nghiệm ngay trong cuộc sống trần gian.
6. SỰ SỐNG VƯỢT TRÊN TỔ CHỨC VÀ LUẬT LỆ
Những điều nói trên đây còn làm sáng tỏ thêm một điểm cuối cùng nữa. Chính cái bản lĩnh sống động của thánh Phanxicô đã tạo nên trong thời đại ngài một phong trào cũng sống động như thế. Phanxicô không nghĩ đến và cũng chẳng cần nghĩ đến việc thành lập một hội dòng. Cộng đoàn Anh em Hèn mọn đã phát sinh quanh ngài, gần như trái với ý ngài; nó đã triển nở quanh ngài và ngài chẳng phải làm gì nhiều. Không được quên sự kiện quan trọng này là một hội dòng không phải là một công trình tổ chức từ trên xuống. Phải công nhận rằng dòng đã được tổ chức kém ngay từ buổi đầu và có lẽ cả ngày nay nữa. Nhưng bù lại dòng có cái lợi này là đã nhận lãnh và chu toàn thật sự một nhu cầu cốt bản cho thời đại mình. Sau hết, không ai có thể chối cãi rằng cái sức sống chảy tràn ra ngoài những lược đồ, những tổ chức chắn chắc, cái sức sống đó vẫn còn là ưu điểm lớn cho hội dòng này.
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Thánh Phanxicô quan niệm thế nào về chức vụ và quyền hành?
2. Nếu tất cả mọi người trong cộng đoàn là anh em, tại sao phải vâng lời?
3. Đâu là động lực cuối cùng và sợi dây thắt chặt cộng đoàn Phan sinh? (Có thể kiểm điểm đời sống cụ thể).
4. Thái độ hèn mọn bao gồm những yếu tố then chốt nào?
5. Thế nào là tự do thật?
6. Đâu là nguồn suối phát sinh niềm vui Phan sinh?
7. Cơ cấu tổ chức có giúp ta sống trung thành với lý tưởng không? (Kiểm điểm đời sống cụ thể).
Lm Nguyễn Hồng Giáo
http://www.ofmvn.org